Hình chỉ là minh họa |
Mặc dù hiếm có ghi nhận, đồng tính luyến ái trong các thời kỳ của lịch sử Việt Nam từng được nhắc tới trong một số tài liệu. Hiện nay, tuy không có luật cấm quan hệ tình dục đồng tính,[1] nhưng luật hôn nhân và gia đình cấm hôn nhân giữa những người cùng giới tính.[2] Chưa có nhiều nghiên cứu về các khía cạnh khác nhau của đồng tính luyến ái.[1] Đại bộ phận người dân còn kỳ thị cũng như có những suy nghĩ sai lệch về người đồng tính. Điều này có thể tác động xấu đến không chỉ những người đồng tính mà còn đến xã hội nói chung. Tuy đồng tính luyến ái bắt đầu được đề cập trong một số tác phẩm nghệ thuật và một số nhân vật lên tiếng kêu gọi xã hội có thái độ tích cực đối với người đồng tính cũng như một số hoạt động dành cho giới này được tổ chức, đồng tính luyến ái ở Việt Nam chưa thực sự được quan tâm một cách đầy đủ và cần thiết.
Trong lịch sử
Trong lịch sử Việt Nam rất hiếm có trường hợp đồng tính luyến ái được ghi nhận, mặc dù trong thế kỷ thứ 16 và 17 có một vài vua chúa có thê thiếp là đàn ông. Ngoài ra, sách sử có chép rằng vua Khải Định tuy có tất cả 12 bà vợ nhưng bất lực hoặc không thích gần đàn bà, chỉ thích đàn ông.
Trong thời Pháp thuộc, một quân y người Pháp tên Jacobus X. đã miêu tả các hoạt động đồng tính tại Việt Nam. Ông cho rằng hiện tượng đồng tính luyến ái là do ảnh hưởng văn hóa của Trung Hoa và là một dấu hiệu của sự suy đồi đang dần dần biến mất do ảnh hưởng của Pháp. Ông cho rằng nếu người Pháp có hành động đồng tính, chẳng qua là chỉ để tránh gái mại dâm bị bệnh giang mai. Tuy nhiên, ông cũng miêu tả mại dâm nam giữa khách hàng là người Pháp hoặc người Trung Quốc và các trẻ em trai từ khoảng 7 đến 15 tuổi. Người bán dâm thường làm tình bằng miệng cho khách. Tình dục hậu môn ít xảy ra hơn vì kích cỡ dương vật của khách hàng Tây phương quá lớn so với hậu môn của những người bán dâm.
Trong thời Chiến tranh Việt Nam, tại Sài Gòn có 18 quán bar dành cho đồng tính nam và 3 quán bar dành cho người đồng tính nữ. Nhiều khách hàng tại các quán bar đồng tính nam là thương gia ở tuổi trung niên và sinh viên dưới 20 tuổi, và rất ít người ẻo lả như phụ nữ. Có nhiều hộp đêm, quán cà phê và dịch vụ xông hơi dành cho khách hàng đồng tính. Nhiều trẻ em mồ côi hay nghèo đói do chiến tranh công khai mời mọc khách hàng tại các góc đường. Có ít nhất 4 tổ chức "trai gọi" cho khách hàng là thương gia Trung Quốc giàu có hay người nước ngoài (hầu hết là Pháp). Đối với lính Mỹ, các hoạt động này rất mạo hiểm vì quân đội Hoa Kỳ không cho phép và những người bị tình nghi là đồng tính sẽ bị đuổi ngay. Đám cưới đồng tính nữ không phải là hiếm. Báo Saigon Daily vào cuối thập niên 1960 có đăng tin về một tổ chức "gái gọi" cho các phụ nữ Tây phương đi du lịch và phụ nữ thượng lưu ở Sài Gòn. Tổ chức này bị giải tán sau khi có chứng cớ là có liên quan đến trẻ em dưới 15 tuổi.
Luật pháp
Tại Việt Nam hiện nay không có luật cấm quan hệ tình dục đồng tính, nhưng luật hôn nhân và gia đình cấm hôn nhân đồng giới.
Các chính quyền trong lịch sử Việt Nam chưa bao giờ đưa ra luật về quan hệ đồng tính. Luật Hồng Đức có đề cập đến hãm hiếp, ngoại tình, và loạn luân nhưng không nhắc gì đến đồng tính. Chính quyền thực dân Pháp cũng không cấm đoán các hành vi đồng tính trong các thuộc địa. Mặc dù mại dâm nữ là phạm pháp, luật pháp không đề cập gì đến mại dâm nam. Tuy nhiên, những hành vi đồng tính có thể bị khởi tố dưới các tội danh như "vi phạm luân lý". Trong những trường hợp hiếm hoi mà hành vi đồng tính bị trừng phạt, tội danh là "ngoại tình" hay "hãm hiếp".
Tuy vậy, đám cưới đồng tính từng được tổ chức ở Việt Nam. Ngày 7 tháng 4 năm 1997, hãng thông tấn Reuters đưa tin về đám cưới đồng tính đầu tiên ở thành phố Hồ Chí Minh giữa hai người nam. Tiệc cưới diễn ra tại một khách sạn với 100 khách mời, và bị nhiều người dân phản đối. Ngày 7 tháng 3 năm 1998, hai người đồng tính nữ làm đám cưới tại Vĩnh Long, nhưng giấy xin phép kết hôn không được chấp nhận. Sau các đám cưới này, Quốc hội thông qua đạo luật cấm hôn nhân đồng tính vào tháng 6 năm 1998.
Năm 2002, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội kêu gọi liệt kê đồng tính luyến ái trong các "tệ nạn xã hội" cần phải bài trừ như mại dâm và ma túy, nhưng đến nay chính phủ Việt Nam vẫn không có chính sách nào về quan hệ đồng tính.
Năm 2008, chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định quy định việc xác định lại giới tính đối với người có khuyết tật bẩm sinh về giới tính hoặc giới tính chưa được định hình chính xác. Những người này là khác với người đồng tính.
Nhân khẩu học
Ở Việt Nam chưa từng có thống kê trên cả nước hoặc một vùng nào đó về số lượng hay tỉ lệ người đồng tính trong dân chúng cũng như những khía cạnh kinh tế, xã hội, văn hóa, sức khỏe của người đồng tính. Một số cuộc thăm dò qui mô nhỏ hoặc chỉ hướng tới một số đối tượng đã được thực hiện. Một cuộc thăm dò của trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh năm 2007 tiến hành trên 300 học sinh của ba trường Trung học Cơ sở và Trung học Phổ thông tại thành phố Hồ Chí Minh cho thấy 42% học sinh cho rằng 1% học sinh trong trường mình là đồng tính, 2% học sinh cho rằng tỉ lệ này là 5%, 8% học sinh cho rằng 10%, còn 25% học sinh còn lại cho rằng nhiều hơn nữa.
Các tổ chức khác nhau đưa ra dự đoán hoặc ước tính số người đồng tính một cách khác nhau. Theo một báo cáo được công bố tại hội nghị khoa học kỹ thuật do Bệnh viện Da liễu thành phố Hồ Chí Minh tổ chức vào ngày 26 tháng 9 năm 2006, chưa có những số liệu chắc chắn, đáng tin cậy về số lượng đồng tính nam ở Việt Nam. Tuy vậy, theo một nghiên cứu của bác sĩ Trần Bồng Sơn, số đồng tính nam ước tính là khoảng 70.000 người. Nhưng theo một nghiên cứu khác do tổ chức phi chính phủ CARE thực hiện tại Việt Nam, con số này lại vào khoảng 50.000-125.000 người.
Nằm trong nổ lực làm cho người dân có cái nhìn đúng đắn về giới đồng tính tại Việt Nam, Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường hợp tác với Học viện Báo chí và Tuyên truyền đã thực hiện một cuộc thăm dò trực tuyến mang tên “Đặc điểm kinh tế, xã hội của nam giới có quan hệ tình dục đồng giới tại Việt Nam”. Việc này được thực hiện bằng cách đăng tải bộ câu hỏi trả lời trực tuyến. Trên 5 diễn đàn dành cho người đồng tính Việt Nam có đăng liên kết đến bộ câu hỏi này. Số người nhấp chuột vào áp phích là 6.859, số người đủ điều kiện tham gia (thỏa mãn các điều kiện là nam giới, sống tại Việt Nam, trên 18 tuổi và có quan hệ tình dục với nam giới trong vòng 12 tháng qua) là 3.231 người. Nhóm nghiên cứu phát hiện:
Độ tuổi: chủ yếu từ 20-30.
Cư trú: 60,66% tại thành phố Hồ Chí Minh, 12,17% tại Hà Nội và còn lại là ở những tỉnh, thành khác.
Trình độ: 67,99% có trình độ đại học, cao đẳng hoặc học trường dạy nghề, 10,15% có trình độ sau đại học, còn lại là trình độ cấp 1 - cấp 3.
Tình trạng hôn nhân: chủ yếu chưa lấy vợ. Tỉ lệ dự định lập gia đình là 18,66%. Lý do lập gia đình là do áp lực gia đình, xã hội hoặc muốn có con.
Tình trạng công khai: 64,25% hoàn toàn giữ bí mật hoặc gần như là bí mật về tình trạng đồng tính, 24,96% “lúc công khai lúc bí mật” và chỉ có 5,31% gần như là công khai và 2,49% hoàn toàn công khai.
Lý do không tiết lộ thiên hướng tình dục: sợ xã hội kỳ thị (40,77%), sợ gia đình không chấp nhận (39.40%), sợ bị trêu chọc, bắt nạt (28,50%), sợ mất việc (9,79%).
Tuy nhiên cuộc thăm dò này chỉ hướng đến một bộ phận trong cộng đồng người đồng tính ở Việt Nam đó là những người dùng internet và là nam có quan hệ tình dục với nam trong vòng 12 tháng.
Việc thống kê một cách đầy đủ và rộng khắp để đưa ra những số liệu đúng đắn về người đồng tính ở Việt Nam có ý nghĩa quan trọng trong hoạch định chính sách đối với người đồng tính cũng như tác động đối với xã hội nói chung. Tuy nhiên, việc thống kê này có nhiều khó khăn như sự khác nhau trong định nghĩa đồng tính luyến ái, sự không công khai của người đồng tính và sự không quan tâm đầy đủ của chính quyền và xã hội.
Thái độ của người Việt Nam đối với đồng tính luyến ái
Thái độ đối với người đồng tính
Nhìn chung, ở Việt Nam thái độ của xã hội đối với đồng tính luyến ái là kỳ thị ở các mức độ khác nhau hoặc không thể hiện thái độ rõ ràng như phớt lờ, không quan tâm. Một tỉ lệ rất nhỏ người dân có thái độ cởi mở với người đồng tính. Nhiều người bắt đầu kêu gọi nên có thái độ cởi mở hơn đối với người đồng tính. Chưa có ghi nhận nào về sự khuyến khích, cỗ vũ việc đồng tính luyến ái.
Nghiên cứu của Viện iSEE về sự kỳ thị của người đồng tính nam tại Việt Nam cho thấy:
1,5% cho biết đã bị đuổi học khi bị phát hiện là người đồng tính.
4,1% bị kỳ thị về vấn đề nhà ở.
4,5% cho biết từng bị tấn công và bị đánh đập vì là người đồng tính.
15,1% cho biết bị gia đình chửi mắng vì là người đồng tính.
Theo tiến sĩ Marie-Eve Blanc, một giảng viên ở Đại học Montreal, Québec (Canada), người từng nghiên cứu về nguy cơ sức khỏe của nhóm hành vi nam có quan hệ tình dục với nam ở Việt Nam, đồng tính luyến ái chưa được quan tâm nhiều ở Việt Nam là do tư tưởng Khổng giáo. Theo Khổng giáo, người đàn ông nên lập gia đình và sinh con để nối dõi tông đường. Người đồng tính trẻ thường bị áp lực bởi gia đình là phải lập gia đình. Cha mẹ thường cảm thấy an tâm khi con trai họ đã lập gia đình. Nhưng sau khi lập gia đình, đồng tính luyến ái trở thành một bí mật và là cuộc sống riêng tư của mỗi cá nhân.
Nhiều người cho rằng đồng tính luyến ái là do ảnh hưởng lối sống của phương Tây. Tuy nhiên theo tiến sĩ Blanc, điều này không đúng. Ngoài ra, sự du nhập của đạo Cơ đốc càng làm cho thành kiến đối với người đồng tính càng nặng nề hơn. Hơn nữa, hầu như các nước Đông Nam Á đều có thành kiến nặng nề với người đồng tính trừ Thái Lan, đất nước không bị đô hộ bởi phương Tây trong quá khứ.
Nhiều người coi đồng tính luyến ái là không bình thường thậm chí là bệnh hoạn đặc biệt là ở nông thôn. Do đó hành vi âu yếm của hai người cùng giới có thể làm cho nhiều người cảm thấy ghê tởm. Nhiều bậc cha mẹ cảm thấy bị tổn thương, kinh ngạc, giận dữ, mắc cỡ hoặc hoang mang khi biết con mình đồng tính. Một số người tìm cách thay đổi con mình, trong khi một số người khác thì không quan tâm đến con nữa.
Hình chỉ là minh họa
Tuy nhiên, một số ít người bắt đầu nhìn nhận người đồng tính cũng như khẳng định đồng tính luyến ái không phải là bệnh. Thái độ đối với người đồng tính có xu hướng cởi mở hơn. Một số nhà tư vấn tâm lý cũng khuyên mọi người nên có thái độ bình tĩnh, tìm cách thấu hiểu và hỗ trợ khi biết người thân hoặc bạn bè là người đồng tính đặc biệt là cha mẹ khi biết sự thật về con mình. Cha mẹ cũng cần thời gian để dần dần chấp nhận việc này.
Trong cuộc thăm dò năm 2007 của Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, với câu hỏi "Người đồng tính luyến ái có xấu hay không?", hơn 80% học sinh trả lời là "không". Các học sinh này giải thích rằng vì đó là quyền tự do của mỗi người hoặc việc là người đồng tính không phải lỗi do bản thân người đó. Khi phát hiện trong lớp có bạn đồng tính, 72% học sinh khẳng định vẫn giữ mối quan hệ bình thường với bạn, kèm theo động viên (34%) và giữ kín bí mật cho bạn (35%), 2% học cảm thấy khinh bỉ và 13% thấy sợ.
Vài chuyên gia tâm lý cho rằng giáo viên cần tôn trọng sự riêng tư của học sinh đồng tính và nên động viên họ để họ không tự đánh giá thấp bản thân, còn cha mẹ của những học sinh này cũng cần được cung cấp kiến thức về vấn đề này để tạo mối quan hệ gần gũi, thông cảm để họ không cảm thấy bị cô lập.
Phần lớn người dân chưa hiểu biết nhiều và đúng về đồng tính luyến ái. Nhiều người không phân biệt được những khái niệm người đồng tính luyến ái, người hoán tính/chuyển đổi giới tính, người lưỡng tính mặc dù đây là những khái niệm khác nhau. Hơn nữa, đa số cho rằng đàn ông nữ tính hoặc phụ nữ nam tính là những người đồng tính. Có bài báo chỉ ra việc hiểu sai của nhiều người và giải thích rõ ràng sự khác biệt của ba khái niệm này. Một bài báo nêu ra rằng những người đồng tính nam hiện nay thuộc ba nhóm chủ yếu: 70% là người có bề ngoài giống như những người đàn ông bình thường, khoảng 10% người ăn mặc, trang sức, tác phong như phụ nữ và khoảng 20% thuộc nhóm nằm giữa hai nhóm này. Bên cạnh đó, quan niệm cho rằng ngày nay càng có nhiều người đồng tính là do đua đòi cũng khá phổ biến. Tuy vậy, một bác sĩ cho biết ngày nay lượng người đồng tính dám thể hiện mình nhiều hơn không phải vì họ tăng lên mà chỉ vì cái nhìn của xã hội đã dần thông thoáng.
Một số vấn đề vi phạm pháp luật liên quan tới người đồng tính hay được đăng trên các báo trong khi đó những mặt tích cực chưa được biết tới vì nhiều lý do. Nhiều bài báo cho rằng tội phạm đồng tính đang gia tăng. Vài người lợi dụng mối quan hệ không công khai, để giết bạn tình là người đồng tính và cướp tài sản. Vài tờ báo đăng về hiện tượng mại dâm nam trong đó người mua dâm có thể là những phụ nữ trung niên hoặc người đồng tính nam. Vài vụ bị công an phát hiện. Những tin tức này có thể làm cho người dân đánh giá người đồng tính chỉ dựa trên một bộ phận nhỏ trong cộng đồng đồng tính đa dạng. Để có cái nhìn chính xác về các mặt pháp luật cần phải có những thống kê và nghiên cứu tỉ lệ phạm tội của người đồng tính và của người không phải là đồng tính cũng như những yếu tố đặc thù liên quan.
Báo chí
Định kiến đối với người đồng tính trên báo chí được cho là giảm theo thời gian mặc dù tỉ lệ kỳ thị còn cao. Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường cùng với Học viện Báo chí và Tuyên truyền, qua nghiên cứu hơn 500 bài báo thuộc bốn báo in và sáu báo mạng, cung cấp kết quả tỉ lệ kỳ thị chiếm 41%, không kỳ thị chiếm 18%, không xác định 41%. Tuy nhiên, cộng đồng đồng tính Việt Nam rất đa dạng, không như mô tả của hơn 500 bài báo này. Có người cho rằng các cơ quan truyền thông cần đăng tải những bài viết, hình ảnh "người thực việc thực".
Vấn đề đồng tính là chủ đề chính trong các bài báo chỉ chiếm tỷ lệ 1/3. Tỷ lệ 2/3 còn lại, đồng tính được nhắc đến như chủ đề phụ. Khi nói về những người nổi tiếng, đồng tính được sử dụng là chi tiết để gây sự chú ý cho người đọc cho thấy cách nhìn nhận vấn đề chưa đúng đắn. Điều này khiến xã hội có cái nhìn phiến diện về đồng tính luyến ái.
Rất ít bài báo đề cập đến nguy cơ hành vi tình dục của người đồng tính và nếu có đề cập, thông tin cũng mơ hồ và không đầy đủ. Nhiều bài viết thiên về quan niệm hành vi tình dục của người đồng tính là đáng lên án, lệch chuẩn, là ăn chơi đua đòi, sống trụy lạc. Quyền được kết hôn của người đồng tính được đề cập nhiều nhất. Tuy nhiên, quyền yêu và được yêu, quyền có con, quyền nhận con nuôi, quyền tiếp cận với các dịch vụ tư vấn thể hiện không nhiều trong các bài báo.
Một nhóm hơn 20 nhà báo có nhu cầu được mời dự lớp tập huấn, chia sẻ thông tin với chuyên gia tình dục học, nhà hoạt động xã hội trong ngoài nước cũng như gặp gỡ các tổ chức và cá nhân trong giới đồng tính. Mục đích là có kiến thức đúng, cập nhật về giới đồng tính để viết bài. Hoạt động này nằm trong dự án “Xây dựng hình ảnh tích cực của những người đồng tính, người lưỡng giới và chuyển giới tại Việt Nam” do iSEE thực hiện- Quỹ Ford tài trợ, kéo dài đến tháng 9 năm 2009.
Hậu quả của việc kỳ thị
Sự kỳ thị của cộng đồng không chỉ làm cho cuộc sống của chính những người đồng tính rất khó khăn mà còn có thể làm ảnh hưởng đến những người không phải là đồng tính và xã hội nói chung. Một chuyên gia tư vấn tâm lý nói rằng đa số những học sinh đồng tính thường có tâm trạng hoang mang, cô độc. Điều này có thể dẫn đến nguy hiểm. Họ có thể sa sút tinh thần, có thái độ bướng bỉnh, nhiều học sinh thường xuyên có ý định tự sát. Bên cạnh đó, vì lý do sợ xã hội kỳ thị, nhiều người đồng tính nam đã lập gia đình với phụ nữ và sinh con tuy nhiên họ không cảm thấy hạnh phúc và gây ra đau khổ cho người vợ của mình. Ngoài ra, vì không được xã hội công nhận, người đồng tính thường giấu mình. Mà như vậy càng làm tăng khả năng lây nhiễm HIV trong cộng đồng.
Quan niệm đồng tính giả
Khái niệm đồng tính giả khá phổ biến ở Việt Nam. Tuy nhiên theo các nhà nghiên cứu Colby, Cao và Doussantousse, tại Việt Nam có rất ít nghiên cứu về đồng tính luyến ái. Trước sự xuất hiện của HIV/AIDS tại Việt Nam đầu thập niên 1990, có rất ít thông tin về đồng tính luyến ái. Theo bác sĩ Trần Bồng Sơn, nhà giới tính học nổi tiếng nhất tại Việt Nam, có hai loại người đồng tính: thật và giả.
Những người đồng tính thật là những người đồng tính bẩm sinh, và số người này rất hiếm. Theo ông, hầu hết những người đồng tính là giả, bị bạn bè rủ rê để thử nghiệm các lối sống mới nhưng cuối cùng cũng trở về lối sống trước đó. Sau trao đổi ý kiến với ông Sơn, các nhà nghiên cứu Colby, Cao và Doussantousse cho rằng quan điểm đó là ý kiến cá nhân của ông Sơn, chứ không phải từ các nghiên cứu hay tài liệu. Tuy thế, vì bác sĩ Sơn có nhiều ảnh hưởng, quan điểm này đã được lặp lại nhiều lần tại Việt Nam và được xem là đúng.
Lời khuyên của một số chuyên gia
Tiến sĩ Huỳnh Văn Sơn, Trưởng bộ môn Tâm lý, khoa Tâm lý giáo dục trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng:
“ Đồng tính không phải là bệnh, không thể lây lan và không thể chữa được. Chính vì vậy chúng ta nên giúp những người đồng tính để họ có cuộc sống tốt hơn. Chúng ta có một số kỹ thuật để kiểm tra và tư vấn xem học sinh đó có là đồng tính thật hay không. Học sinh đồng tính cũng có nhiều nhu cầu như mọi em khác, như học tập, vui chơi, kết bạn, phấn đấu vươn lên trong cuộc sống. Những người tham gia công tác giáo dục trẻ em, những nhà chuyên môn, nhà tham vấn, phụ huynh cần có cái nhìn nghiêm túc về vấn đề này. ”
Bác sĩ Phạm Nam Việt, phòng khám nam khoa, bệnh viện Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh, khuyên một phụ huynh có con là đồng tính:
- Giữ kín bí mật cho con nếu con muốn giữ bí mật.
- Hãy là chỗ dựa tinh thần cho con. Cháu đã bị rất nhiều áp lực từ xã hội, đừng để cháu bị bất cứ một chút áp lực nào từ gia đình nữa. Không nên ép buộc cháu thừa nhận là đồng tính mà hãy để cháu tự nói ra khi cháu thấy đủ tự tin và cần thiết.
- Hãy để chính con chị là người quyết định cuối cùng trong mọi quyết định về lối sống (phụ huynh có thể tham gia với vai trò của một người tư vấn định hướng), vì chỉ như vậy cháu mới tìm được sự thanh thản và hạnh phúc.
Ông Lê Quang Bình, viện trưởng Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường, cho rằng:
“ Để giảm bớt sự kỳ thị của mọi người với người đồng tính cần cung cấp cho mọi người thêm kiến thức về người đồng tính để họ hiểu hơn. Kiến thức đó bao gồm các khía cạnh như xu hướng tình dục không phải là sự lựa chọn của mỗi người mà đó là điều sẵn có, và đồng tính không phải là bệnh. Nó cũng không lây như nhiều người nghĩ. Khi có được những hiểu biết đúng đắn sẽ dẫn đến thay đổi về hành vi, thái độ với người đồng tính. ”
Cuộc sống của người đồng tính
Tùy thuộc vào mức độ công khai và sự cởi mở của mình mà người đồng tính có cách sống khác nhau. Nhiều người đồng tính gặp gỡ nhau ở các tụ điểm như vũ trường, karaoke, quán cà phê. Những người kín đáo hơn thường làm quen với nhau thông qua các diễn đàn trên internet. Từ đầu những năm 2000, các diễn đàn tiếng Việt trên internet dành cho người đồng tính nam hoặc đồng tính nữ bắt đầu xuất hiện và tăng dần về số lượng. Các hoạt động như tổ chức thi viết truyện, giao lưu giữa các thành viên, hoạt động từ thiện, radio online cũng thường được tổ chức ở một vài diễn đàn. Tuy nhiên, chỉ một số lượng rất nhỏ thành viên của các diễn đàn dám tham gia các cuộc gặp gỡ đông người. Ngoài ra, cũng có những người đồng tính có cuộc sống dị tính luyến ái và không có bất cứ liên hệ nào với người đồng tính khác.
Ở Việt Nam, mặc dù cũng có những mối quan hệ đồng tính bền lâu, những trường hợp như vậy khá hiếm. Một bài báo cho rằng có những mối quan hệ đồng tính kéo dài nhưng tỉ lệ mối quan hệ hơn 10 năm là thấp. Lý do được đưa ra là ít có ràng buộc chẳng hạn như không có hôn thú, con cái, lại bị lên án hoặc không được công nhận. Một tỉ lệ nhỏ các cặp đồng tính nữ có mối quan hệ lâu bền công khai sống chung. Việc công khai sống chung lâu dài ở đồng tính nam là rất hiếm. Một bộ phận người đồng tính nam lập gia đình với phụ nữ. Những người khác thì chọn cách sống độc thân.
Các tổ chức và hoạt động
Các tổ chức và hoạt động dành cho người đồng tính ở Việt Nam là khá hiếm và không đa dạng. Gần đây, một số câu lạc bộ dành cho MSM được thành lập như câu lạc bộ Hải Đăng ở Hà Nội, Ánh Sao Đêm ở Đà Nẵng, Muôn Sắc Màu ở Khánh Hoà, Bầu Trời Xanh ở thành phố Hồ Chí Minh và Đồng Xanh ở Cần Thơ. Các câu lạc bộ này cung cấp cho những người nam có quan hệ tình dục với nam kiến thức cơ bản về HIV/AIDS và tình dục an toàn, cũng như giúp các thành viên có cơ hội chia sẻ khó khăn trở ngại để cùng tìm cách giải quyết. Ngoài ra còn có biểu diễn văn nghệ, thời trang, hài kịch lồng ghép với các chủ đề về HIV/AIDS hay đánh giá hành vi tình dục. Người tham gia chủ yếu là các MSM, nhưng cũng có không ít người dân đến xem.
Bên cạnh đó, vận động chính quyền, các tổ chức để cung cấp thông tin về cho người dân hiểu thêm về MSM để họ có cái nhìn thiện cảm hơn về MSM. Người tham gia cũng được tham vấn xét nghiệm HIV miễn phí, giấu tên. Là một trong những hoạt động hiếm hoi được tổ chức một cách công khai, cuộc thi Manstyle 2008 tìm kiếm nam vương của người đồng tính Việt Nam đã diễn ra vào tối ngày 20/12/2008 tại thành phố Hồ Chí Minh.
Tháng 7 năm 2007, tại thành phố Hồ Chí Minh, họa sĩ Trương Tiến Trà giới thiệu 11 tác phẩm nằm trong dự án hội họa kéo dài 3 năm với tên là The Distorted Truth (Sự thật méo mó) lấy chủ đề chính những người đồng tính.
Tháng 11 năm 2008, Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường đã kết hợp với đại diện của một số diễn đàn internet dành cho người đồng tính như Tình yêu trai Việt, Táo xanh, Vườn tình nhân, và Bạn gái Việt Nam thành lập ra Nhóm kết nối và chia sẻ thông tin vì một hình ảnh tích cực của người đồng tính Việt Nam (ICS team-Information Connecting & Sharing). Tổng cộng, số thành viên của các diễn đàn này lên tới vài chục ngàn lượt người.
Tháng 10 năm 2009, triển lãm tranh với chủ đề Góc nói về người đồng tính nữ đã diễn ra tại 29 Hàng Bài, Hà Nội.
Cuối tháng 11 năm 2009, nhằm kỉ niệm một năm thành lập, iSEE và ICS đã tổ chức một chuỗi sự kiện đầu tiên của Việt Nam về người đồng tính. Triển lãm tranh với chủ đề Open-Mở được tổ chức từ ngày 27 đến ngày 29 tháng 11 năm 2009 tại Nhà Văn hóa Thanh Niên Thành phố Hồ Chí Minh. 56 tranh, ảnh, sắp đặt được trong triển lãm được cho là đậm tính nhân văn, gửi gắm tâm sự, ước nguyện, thể hiện khát vọng mở lòng, trải lòng và hòa nhập cộng đồng, xã hội của người đồng tính. Thạc sĩ Lê Quang Bình, viện trưởng Viện nghiên cứu kinh tế, xã hội và môi trường Việt Nam cho biết " Triển lãm này là một trong nhiều hoạt động khác nhằm giúp xã hội hiểu hơn về người đồng tính. Từ đó mọi người có cái nhìn chia sẻ và mở lòng với người đồng tính để người đồng tính trải lòng với thế giới xung quanh."
Sáng 29 tháng 11 năm 2009, tại báo Tuổi Trẻ đã diễn ra buổi giao lưu cộng đồng người đồng tính với 85 đại diện các diễn đàn internet dành cho người đồng tính tại Việt Nam và gần 30 phóng viên các báo đài.
Công khai
Chỉ một tỉ lệ nhỏ người đồng tính công khai thiên hướng tình dục của mình, trong đó số người được công chúng biết đến công khai rất hiếm. Năm 2006, nhạc sĩ Thái Thịnh, chuyên gia trang điểm Nguyễn Hùng công khai mình là người đồng tính. Sau đó là ca sĩ Thiên Đăng. Nguyễn Hùng cho rằng " Tiếp theo, nên có những người lên tiếng nữa, nhất là trong giới nghệ sĩ, để xã hội thay đổi, giúp người đồng tính dễ thở hơn."
Trong cộng đồng người đồng tính Việt Nam, có nhóm người ủng hộ việc công khai thiên hướng tình dục, có nhóm người phản đối. Nhóm ủng hộ cho rằng không gì hạnh phúc hơn là sống với chính bản thân mình và việc giấu giếm chỉ khiến thêm đau khổ, dằn vặt, lúc nào cũng cảm thấy lo sợ. Những người phản đối thì cho rằng, người đồng tính không nên làm vậy bởi xã hội hiện nay vẫn còn nhiều định kiến và nếu công khai sẽ khiến họ mất mát nhiều thứ, đồng thời khiến người xung quanh cũng có cái nhìn khác về họ. Còn bản thân họ thì lại lo sợ sẽ làm gia đình đau khổ và chính bản thân cũng chịu áp lực cao từ người thân. Đa số trường hợp gia đình biết một người nữ là đồng tính là do bị " lộ chứ họ không chủ động công khai." Người đồng tính nữ rất ngại trước câu hỏi: "Bao giờ lấy chồng?" Ông Lê Quang Bình cho rằng: "Việc công khai hay không công khai là lựa chọn của mỗi người. Một người đồng tính khi công khai thì tuỳ thuộc vào hoàn cảnh và thái độ của mỗi người."
Người đồng tính có ở nhiều tầng lớp khác nhau, làm nhiều nghề khác nhau và có nhiều lối sống khác nhau. Nhiều người đồng tính thành đạt trong công việc. Nhiều bài báo cũng như nghiên cứu, thống kê tập trung vào những người đồng tính có hoạt động tình dục rộng rãi hoặc những người dễ dàng bộc lộ thiên hướng tình dục có thể làm nhiều người đánh giá sai hoặc có ác cảm với người đồng tính nói chung. Việc công khai thiên hướng tình dục của nhiều người là trí thức hoặc có địa vị trong xã hội hoặc ở nhiều tầng lớp, nghề nghiệp, lối sống khác nhau có thể làm cho người ta giảm bớt thành kiến hoặc ít ra có cái nhìn rộng rãi hơn về người đồng tính. Tuy nhiên, khi xã hội còn nhìn nhận đồng tính còn khá khắt khe thì người đồng tính trí thức hoặc có địa vị lại có xu hướng không công khai thiên hướng tình dục của mình. Người đồng tính trẻ ở Việt Nam cũng như ở các nước châu Á rất mong muốn có được một môi trường thân thiện đồng tính như một số nước ở phương Tây.
Đồng tính luyến ái trong nghệ thuật
Xuân Diệu, người được cho là ông hoàng của thơ tình Việt Nam, có bài Tình trai nói về mối tình đồng tính của hai nhà thơ người Pháp Rimbaud và Verlaine. Bài Em đi (1965) với lời đề tặng nhà thơ Hoàng Cát được viết với những lời thơ tha thiết khi chia tay Hoàng Cát vào Nam chiến đấu. Bài Biển mô tả tình yêu nồng nàn giữa hai hình tượng sóng biển và cát vàng cũng được cho là ngụ ý nói về Hoàng Cát (cát vàng). Hoàng Cát đã từng xác nhận “Tôi với anh Xuân Diệu có nhiều điều “Sống để dạ, chết mang đi”. Nhưng tôi muốn nói với bạn rằng việc đàn ông yêu nhau là do cấu tạo thể chất chứ bản thân họ chẳng có tội tình gì.”
Có người cho rằng Xuân Diệu cùng với Huy Cận là hai nhà thơ đồng tính luyến ái.[50] Huy Cận và Xuân Diệu từng sống với nhau nhiều năm. Theo hồi ký Cát bụi chân ai của Tô Hoài thì Xuân Diệu từng bị kiểm điểm về việc này.
Một thế giới không có đàn bà của nhà văn Bùi Anh Tấn là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Việt Nam viết về người đồng tính, đã nhận giải A cuộc thi viết tiểu thuyết và ký "Vì an ninh Tổ quốc, vì cuộc sống bình yên". Tuy nhiên, ở đoạn cuối của tác phẩm, hai nhân vật đồng tính yêu nhau đã chuyển sang yêu người khác giới. Bùi Anh Tấn đã xác nhận rằng đoạn cuối thực của anh đã bị cắt mất và đoạn của nhà xuất bản được thay vào. Trong các lần tái bản sau, ngoài đoạn kết do nhà xuất bản đưa vào, tác giả còn đưa vào thêm một đoạn kết với nội dung hai nhân vật nam chính cuối cùng vẫn không quên được nhau, và để cho độc giả tự lựa chọn kết thúc mình muốn. Ngoài ra anh còn viết Les–Vòng tay không đàn ông.
Một số tác phẩm khác về đề tài đồng tính là Bóng, tự truyện của Nguyễn Văn Dũng do hai nhà báo Hoàng Nguyên, Đoan Trang viết, 198X của Quỳnh Trang, Lạc giới của Thuỷ Anna, Không lạc loài, tự truyện của Thành Trung do nhà văn Lê Anh Hoài viết, Xin lỗi em, anh đã yêu anh ấy, tiểu thuyết và Chuyện tình của Lesbian và Gay của Nguyễn Thơ Sinh. Nguyễn Thơ Sinh tốt nghiệp cao học tư vấn tâm lý Đại học Bowie, Hoa Kỳ hiện đang làm việc tại Hàn Quốc.
Ở Việt Nam, đề tài đồng tính không bị cấm, nhưng trước đây người viết hay né tránh. Vì thiếu thông tin, nên hiểu biết của mọi người về người đồng tính này thường sa vào khía cạnh tiêu cực, đánh đồng giới đồng tính với sự sa đọa, bệnh tật, tệ nạn xấu xa. Hiểu sai dẫn đến ứng xử sai, khiến người đồng tính trở nên mặc cảm, sống co cụm.
Điện ảnh và âm nhạc
Một thế giới không có đàn bà của nhà văn Bùi Anh Tấn đã được dựng thành phim nằm trong loạt phim truyền hình Cảnh sát hình sự. Bộ phim ít nhiều đã phản ánh được những giằng xé nội tâm, những bi kịch giới tính.[56] Trong bộ phim Cô gái xấu xí phần 2, nhân vật phụ Hùng Long được thể hiện như một người khá nữ tính nhưng là một người có tài năng và sống có tình cảm. Chơi vơi, phim nhựa đầu tiên của Việt Nam tham gia Liên hoan phim Venice,[57] do Bùi Thạc Chuyên đạo diễn, có mô tả mối tình đồng tính kín đáo của hai nhân vật nữ.
Tuy nhiên, hầu hết phim ở Việt Nam thể hiện những nhân vật phụ là người đồng tính nam như những người ẻo lả, giống đàn bà hoặc theo đuổi những người đàn ông khác một cách lộ liễu dùng để gây cười, thu hút khán giả hơn là phản ánh đúng thực tế cuộc sống của người đồng tính. Điều này có thể làm cho dư luận có ác cảm hơn với người đồng tính. Một số đạo diễn cũng thừa nhận thực tế này và cho rằng nên có những bộ phim thể hiện người đồng tính một cách đúng đắn hơn cho dù là ở vai phụ.
"Những Nụ Hôn Rực Rỡ" là một trong những bộ phim ca nhạc chiếu vào dịp Tết 2010, nội dung phim có đề cập đến nhân vật Tô Lâm, một nhân vật đồng tính vì sự kì thị của gia đình đã bỏ gia đình đi theo tiếng gọi của ước mơ là một diễn viên múa. Tô Lâm đã giúp đỡ cô chủ của mình và cuối phim đã được đền đáp xứng đáng bằng một nụ hôn với người mình yêu... Cuối tháng 04 năm 2010, Bộ phim truyện nhựa "Để Mai Tính" đề cập một khía cạnh khá mới của chủ đề đồng tính. Bộ phim thành công bởi hình ảnh đẹp, cảnh quay chân thực và nội dung phim nhẹ nhàng, dựng theo tính hài hước, cảm thông và rất giầu tính nhân văn.
Có nhiều bài hát được viết về tình yêu đồng tính trong đó có bài Tình tuyệt vọng của nhạc sĩ Thái Thịnh và Chiếc bóng của nhạc sĩ Phương Uyên.
Đ ồng tính luyến ái trong khoa học và nghiên cứu
Mặc dù rất cần thiết, chưa có nhiều nghiên cứu về đồng tính luyến ái ở Việt Nam Theo ông Đinh Hường, Chủ nhiệm Khoa Báo chí, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, hiện nay trong chương trình đào tạo chưa có bài giảng chuyên sâu về lĩnh vực này. Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Thị Minh Thái, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội) phát biểu: “ Đồng tính là vấn đề xã hội, cần phải được truyền thông một cách nghiêm túc và khoa học”.
Thuật ngữ và từ lóng
Straight là người dị tính luyến ái.
Gay là người đồng tính nam.
Lesbian hoặc les là người đồng tính nữ.
Bóng lộ là người đồng tính nam ăn mặc, cử chỉ như phụ nữ.
Gay kín là người đồng tính nam có nam tính, và mọi người khó phát hiện là gay.
Fem chỉ người đồng tính nữ có nữ tính và mọi người khó phát hiện là les.
Butch là người đồng tính nữ có nam tính, cử chỉ điệu bộ giống đàn ông.
Soft butch là từ để chỉ một dạng khác của người đồng tính nữ, có bề ngoài và cá tính mạnh mẽ nhưng ở mức độ chừng mực, không cố gắng hết sức nhằm loại bỏ những đặc điểm nữ tính của mình (như cố tình ép ngực, cắt tóc ngắn, vân vân).
Come out là hành động công khai cho mọi người biết mình là người đồng tính.
Một cách bình dân, pê-đê có thể chỉ người đồng tính nam và ô môi có thể chỉ người đồng tính nữ.
Các từ đồng tính luyến ái, gay, lesbian là từ khoa học và mang tính trung lập song các từ pê-đê, xăng pha nhớt, bóng lộ, bóng kín, hai thì, hifi mang tính xúc phạm ít hoặc nhiều.
Các thuật ngữ hay từ lóng còn lại chỉ phổ biến trong cộng đồng đồng tính.
Cụm từ thế giới thứ ba mặc dù không mang tính xúc phạm và được dùng phổ biến bởi người dân và báo chí nhưng nó không có định nghĩa rõ ràng và thường để chỉ cộng đồng người đồng tính và người hoán tính/chuyển đổi giới tính một cách không phân biệt.
Sưu tầm
Comments